Giá củ đao giềng (dong riềng) tại xã Quy Mông, tỉnh Lào Cai đang rơi xuống mức thấp kỷ lục, hiện chỉ 1.100 đồng/kg, khiến hàng trăm hộ nông dân lao đao. Trước bài toán “được mùa mất giá”, địa phương đang tìm lối thoát bằng quy hoạch lại cây trồng và thúc đẩy chế biến sâu, trong đó mô hình làm miến OCOP được xem là hướng đi nhiều triển vọng...
Vừa qua, đến xã Quy Mông (tỉnh Lào Cai), ông Phạm Văn Hoàn - Chủ tịch UBND xã dẫn chúng tôi đi “mục sở thị” vùng trồng cây đao giềng (loại cây nhiều địa phương còn gọi là dong riềng hay cây chóc).
Nằm ven sông Hồng, xã Quy Mông có diện tích bãi bồi khá màu mỡ, xen lẫn địa hình bán sơn địa với đồi núi thấp và những cánh đồng bằng phẳng. Trước đây, Quy Mông là xã có diện tích lớn nhất huyện Trấn Yên, tỉnh Yên Bái; sau sáp nhập địa giới hành chính và thực hiện mô hình chính quyền địa phương hai cấp, xã hiện được hợp nhất từ 4 xã.
CỦ ĐAO GIỀNG RỚT GIÁ, NÔNG DÂN LO LẮNG
Dong riềng đỏ là cây trồng truyền thống gắn bó lâu đời với người dân Quy Mông. Chất lượng bột dong riềng nơi đây đã được giới làm miến ở nhiều tỉnh, thành đánh giá cao. Toàn xã hiện có trên 400 hộ trồng dong riềng với diện tích khoảng 70 ha, tập trung tại các thôn Thịnh Bình, Thịnh An, Thịnh Hưng và Thịnh Lợi. Mỗi năm, sản lượng thu hoạch đạt khoảng 5.000 tấn củ, đưa Quy Mông trở thành địa phương có diện tích trồng dong riềng lớn nhất tỉnh Lào Cai.
Tuy nhiên, năm nay người trồng dong riềng đang đối mặt với khó khăn lớn khi giá củ rơi xuống mức rất thấp. Hiện thương lái thu mua dong riềng tươi tại ruộng chỉ từ 1.100 – 1.200 đồng/kg, chưa bằng 1/3 so với mức 3.000 đồng/kg của cùng kỳ năm 2024.
Theo ông Phạm Văn Hoàn, năm ngoái cơn bão Yagi khiến nước sông Hồng dâng cao, gây ngập úng và làm thiệt hại nghiêm trọng diện tích dong riềng ven sông. Với loại cây chỉ trồng một vụ mỗi năm, mất mùa đồng nghĩa với mất trắng. Trong khi đó, phần lớn dong riềng tại địa phương vẫn được bán tươi cho thương lái hoặc chỉ sơ chế thành bột rồi xuất đi các tỉnh miền xuôi. Việc phụ thuộc vào thương lái và thiếu khâu chế biến sâu khiến thu nhập của người trồng luôn bấp bênh, dễ bị ép giá.
HAI HƯỚNG ĐI ĐỂ TÌM “LỐI THOÁT”
Để giảm rủi ro cho người dân, xã Quy Mông đã định hướng hai giải pháp song song là quy hoạch lại cơ cấu cây trồng theo điều kiện từng vùng: khu bãi ngoài đê chuyển sang trồng dâu tằm phát triển nghề tơ tằm; vùng trong đê, đất đồng và chân núi tiếp tục trồng dong riềng; còn khu vực sườn đồi cao ưu tiên trồng quế và măng bát độ; đồng thời thúc đẩy chế biến sâu củ đao giềng ngay tại địa phương nhằm giảm áp lực tiêu thụ vào mùa thu hoạch rộ. Đây được xác định là giải pháp then chốt.
Những năm gần đây, sự ra đời của hai hợp tác xã sản xuất miến tại chỗ đã mở ra hướng đi mới cho cây dong riềng Quy Mông.
Hợp tác xã Việt Hải Đăng sản xuất theo phương pháp ép đùn sợi miến rồi mới phơi, nên sợi có tiết diện tròn.
Hợp tác xã Xanh Quy Mông sản xuất theo phương pháp tráng, đem phơi khô rồi mới thái thành sợi, nên tiết diện sợi miến có hình vuông.
Sản phẩm miến của hai hợp tác xã này đều đã được chứng nhận OCOP: Hợp tác xã Khởi nghiệp Xanh Quy Mông đạt OCOP 3 sao, Hợp tác xã Việt Hải Đăng đạt OCOP 4 sao.
Tại thôn Thịnh An, cơ sở sản xuất của Hợp tác xã Khởi nghiệp Xanh Quy Mông do ông Đỗ Danh Toàn (sinh năm 1963) làm Giám đốc là một câu chuyện tiêu biểu. Gắn bó với cây dong riềng từ lâu, nhưng trước đây người dân Quy Mông chỉ bán củ hoặc bột, chưa từng làm miến. Mỗi vụ thu hoạch, dong riềng nhiều nhưng máy xay nhỏ, không kịp chế biến, có thời điểm củ để chất đống rồi thối hỏng.
Điều khiến ông Toàn trăn trở, là ngay giữa vùng nguyên liệu làm miến, nhưng người dân địa phương lại phải mua miến từ nơi khác về sử dụng. Được chính quyền xã động viên, ông quyết tâm khôi phục nghề làm miến ngay trên quê hương mới.
Có nguyên quán từ Hoài Đức (Hà Nội) - nơi có làng nghề miến Làng So nổi tiếng, ông Toàn tìm về quê gốc học nghề rồi đầu tư máy móc, nhà xưởng, sân phơi, liếp tre… với số vốn lên tới hàng trăm triệu đồng. Khi những mẻ miến đầu tiên ra đời, ông đặt thương hiệu “miến Toàn Nga”, bán thử cho người dân địa phương với giá thấp hơn thị trường để quảng bá và nhận phản hồi.
Từ những đơn hàng nhỏ ban đầu, miến Toàn Nga dần được người tiêu dùng ở nhiều tỉnh biết đến. Năm 2021, Hợp tác xã Khởi nghiệp Xanh Quy Mông chính thức thành lập với 7 xã viên, liên kết thêm 4 tổ hợp tác. Công suất sơ chế đạt khoảng 40 tấn củ/ngày, tương đương 200 tấn bột/năm; sản phẩm miến được công nhận OCOP 3 sao của tỉnh Yên Bái trước đây.
OCOP 3 SAO NHƯNG VẪN NHIỀU TRĂN TRỞ
Hiện mỗi năm hợp tác xã của ông Toàn sản xuất khoảng 10 tấn miến, tiêu thụ khoảng 70 tấn củ dong riềng cho nông dân. Cộng cả hai hợp tác xã trong xã, tổng lượng dong riềng được chế biến cũng chỉ khoảng 150 tấn - con số rất nhỏ so với 5.000 tấn củ thu hoạch hằng năm.
Theo ông Toàn, quy mô sản xuất còn hạn chế do điều kiện thời tiết. Khu vực Trấn Yên cũ mưa nhiều, độ ẩm cao, trong khi miến tráng - thái truyền thống phụ thuộc lớn vào nắng để phơi. Khi trời nắng thì dong riềng chưa thu hoạch, đến lúc thu hoạch rộ lại mưa liên tục, khiến việc sản xuất dễ hỏng.
Trong khi đó, nhu cầu thị trường rất lớn. Sau khi đạt OCOP 3 sao, nhiều đối tác ở Hà Nội và các tỉnh miền xuôi đề nghị đặt hàng từ 20–50 tấn, nhưng hợp tác xã đành từ chối vì không đủ năng lực cung ứng, chỉ bán cho các đối tác thương mại nhỏ.
Theo ông Phạm Văn Hoàn, trước đây tỉnh đã có chính sách hỗ trợ tem nhãn, truy xuất nguồn gốc cho sản phẩm OCOP. Sau sáp nhập, tỉnh Lào Cai mới tiếp tục phân bổ hơn 6 tỷ đồng hỗ trợ xã Quy Mông phát triển sản phẩm OCOP và hạ tầng nông thôn, trong đó ưu tiên mở đường vào vùng nguyên liệu để thuận lợi thu mua.
Đặc biệt, để tháo gỡ nút thắt về thời tiết, địa phương dự kiến hỗ trợ Hợp tác xã Khởi nghiệp Xanh Quy Mông đầu tư máy sấy miến theo hình thức đối ứng 70/30, với 420 triệu đồng vốn hỗ trợ không hoàn lại từ tỉnh. Khi có máy sấy, việc sản xuất miến sẽ không còn phụ thuộc hoàn toàn vào nắng, giúp nâng cao sản lượng và không bỏ lỡ các đơn hàng lớn.
Ông Toàn cho biết có máy sấy, trời mưa hay nắng đều làm được miến, chúng tôi sẽ mạnh dạn mở rộng sản xuất.
Từ câu chuyện dong riềng Quy Mông, có thể thấy con đường nâng cao giá trị nông sản không chỉ nằm ở sản lượng mà quan trọng hơn là chế biến sâu, xây dựng thương hiệu và liên kết chuỗi. Đó cũng chính là “lối thoát” bền vững để nông dân không còn nỗi lo “được mùa rớt giá”.
-Chu Khôi